Đặc điểm chung Bộ Cá sấu

Cá sấu là động vật cao cấp nhất trong tất cả các loài bò sát. Cá sấu có tim 4 ngăn, cơ hoành và vỏ não. Đặc điểm này làm nó được đánh giá là tiến hóa hơn những loài bò sát khác.

Kích thước và hình dạng

Bài chi tiết: Kích thước các loài cá sấu

Kích thước của cá sấu thay đổi đáng kể, giữa loài cá sấu lùn chỉ dài khoảng trên 1m và cân nặng trên dưới 10 kg cho đến loài cá sấu nước mặn khổng lồ dài tới 6-7m và có khối lượng 1-2 tấn. Một số loài cá sấu lớn có thể dài từ 5 đến 6 mét và nặng khoảng 1.200 kg. Tuy nhiên, lúc mới sinh ra cá sấu chỉ khoảng 20 cm. Loài cá sấu lớn nhất là cá sấu nước mặn sống ở Bắc Úc và Đông Nam Á. Theo một số nhà khoa học, không một con cá sấu nào có thể vượt qua kích thước 8,64 m.

Có tất cả 24 loài trong Bộ cá sấu hiện còn tồn tại. Chúng đều có hình dáng kiểu thằn lằn, với một cái đuôi dài rất khỏe giúp chúng bơi trong nước, và một cặp hàm dài, mạnh mẽ với những chiếc răng sắc nhọn vô cùng nguy hiểm. Tuy nhiên các loài cá sấu có chiếc mõm rất khác nhau. Họ cá sấu đích thực (Crocodylidae) gồm 14 loài có đầu hẹp và tương đối dài với chiếc mõm nhọn hình chữ V. Họ cá sấu mõm ngắn (Alligatoridae) bao gồm 8 loài có chiếc mõm rộng hình chữ U. Hai loài cá sấu mõm dài (họ Gavialidae) có chiếc mõm cực kỳ dài, mảnh dẻ với bộ hàm yếu, chủ yếu săn bắt cá và các loài thủy sinh nhỏ.

Môi trường sống

Cá sấu là các loài bò sát lớn ưa thích môi trường nước, chúng sống trên một diện tích rộng của khu vực nhiệt đới của châu Phi, châu Á, Bắc Mỹ, Nam Mỹchâu Đại Dương. Cá sấu có xu hướng sinh sống ở những vùng sông và hồ có nước chảy chậm. Thân thể chúng thuôn dài giúp bơi nhanh hơn. Khi bơi chúng ép sát chân vào người để giảm sức cản của nước. Chân cá sấu có màng, không phải dùng quạt nước mà để sử dụng cho những cử động nhanh đột ngột hoặc lúc bắt đầu bơi. Chân có màng giúp cá sấu có lợi thế ở những chỗ nước nông, nơi mà các con vật trên cạn thường qua lại. Một số loài, chủ yếu là cá sấu cửa sôngÚc và các đảo trên Thái Bình Dương, được biết là có khả năng bơi ra xa ngoài biển.

Các loài cá sấu đích thực phân bố hầu khắp các vùng nhiệt đới của các châu lục, trong khi các loài cá sấu mõm ngắn phân bố chủ yếu ở châu Mỹ (trừ cá sấu Dương Tử sinh sống ở Trung Quốc) và các loài cá sấu mõm dài chỉ có mặt ở phía nam châu Á.

Phân bố của các loài cá sấu thực thụ

Kỹ năng tấn công

Cá sấu ăn thịt và là tay đi săn cừ khôi. Thức ăn của chúng khá đa dạng, chủ yếu là động vật có vú, kể cả còn sống hay đã chết. Cá sấu rất nhanh nhẹn trong khoảng cách ngắn, thậm chí cả khi ở ngoài môi trường nước. Chúng có quai hàm cực khỏe và bộ răng sắc nhọn để xé thịt, nhưng chúng không thể há miệng nếu nó bị khép chặt, do cơ khép hàm khỏe hơn nhiều so với cơ mở hàm, vì thế có một số câu chuyện về việc người sống sót khỏi những con cá sấu sông Nin mõm dài bằng cách khép chặt quai hàm của chúng. Áp lực của quai hàm cá sấu đạt tới 3000 pao trên một inch vuông (3000 psi, xấp xỉ 144 kPa), so sánh với chỉ 100 psi đối với một con chó to. Tất cả những con cá sấu lớn cũng có vuốt sắc và khỏe.

Cá sấu là những kẻ đi săn kiểu mai phục, chúng chờ đợi cho cá hay động vật sống trên đất liền đến gần, sau đó tấn công chớp nhoáng. Sau khi dùng cú đớp trời giáng của mình, con cá sấu kéo nạn nhận xuống con sông để nhấn chìm tới ngạt thở. Sau đó, để xé mồi, nó ngoạm chặt miếng thịt rồi xoay người nhiều vòng để dứt thịt ra. Thoạt nhiên, bạn có thể cho rằng điều này thật khó khăn vì không kiếm được điểm tựa, nhưng những con cá sấu thì không phải lo điều đó: ngay khi đánh hơi được mùi máu, năm sáu chú cá sấu cùng bơi đến tỏ ý muốn chia sẻ bữa ăn, và thường thì con mồi bị xé ra thành hàng trăm mảnh nhỏ bởi những bộ hàm to khỏe và cú xoay người mãnh liệt.

Cảnh cá sấu đang xé xác con mồi

Là động vật ăn thịt máu lạnh, chúng có thể sống nhiều ngày không có thức ăn, và hiếm khi thấy chúng cần thiết tích cực đi săn mồi. Mặc dù có vẻ ngoài chậm chạp, nhưng cá sấu là những kẻ săn mồi thượng hạng trong môi trường của chúng, và người ta còn thấy một số loài cá sấu dám tấn công và giết cả sư tử, động vật móng guốc lớn và thậm chí cả cá mập. Tại Vườn quốc gia Sundarbans ở Ấn Độ một con cá sấu dài 4,5m ở khu đầm lầy ngập mặn hoang dã tây Bangal đã có một cuộc tấn công lịch sử trở thành con cá sấu đầu tiên tiêu diệt một con hổ hoang dã tại đây, con hổ đã bị tấn công khi nó đang cố bơi qua sông và bị giết trong một trận chiến khốc liệt sau đó, con cá sấu đã có được lợi thế khi chiến đấu ở dưới nước[2]. Ngoại lệ nổi tiếng là chim choi choi Ai Cậplà loài có quan hệ cộng sinh, trong đó chim choi choi có thức ăn là các loài ký sinh trùng sinh sống trong miệng cá sấu và cá sấu để cho chim tự do làm việc này.

Sách Kỷ lục Guinness đã ghi nhận sự kiện một Trung đoàn biệt kích Nhật Bản bị cá sấu xóa sổ trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai là một thảm kịch có số lượng lớn nhất các ca tử vong của con người do động vật gây ra[3][4]. Trung đoàn biệt kích thiện chiến với 1.215 binh sĩ đã bị đàn cá sấu nuốt sống, hơn 20 binh sĩ và sĩ quan sống sót, những người thoát khỏi những cái hàm cá sấu và bị người Anh bắt làm tù binh[5][6].

Mùa sinh sản

Tất cả cá sấu là loài đẻ trứng. Cá sấu đực là những kẻ khá ầm ỹ. Vào mùa sinh sản, chúng phát ra những âm thanh có thể so sánh với động cơ của những chiếc máy bay cỡ nhỏ, âm thanh này có thể lan truyền nhiều km trong làn nước. Chúng thu hút những con cái và tất nhiên, những con đực khác đang đố kị. Rất nhanh chóng, hàng chục con đực khác kéo đến và thi nhau cất lên những lời ca trầm hùng, đôi khi còn làm rung động mặt nước phía trên tấm lưng chúng, khiến nước bắn lên cao một cách đáng kinh nhạc.

Tất nhiên, chú sấu nào khỏe hơn sẽ có tiếng ca lớn hơn. Ở môi mỗi con cá sấu đều có một bộ phận cảm nhận những rung động của mặt nước, đối với con cái là để tìm được người chồng ưng ý, còn đối với những chàng ca sĩ khác là để đánh giá đối thủ. Nếu cảm thấy kẻ to mồm kia mạnh hơn mình, những con cá sấu sẽ tự rời bỏ cuộc tranh đua, còn nếu không thì trận chiến thực sự giữa những hàm răng sắc nhọn sẽ nổ ra.

Tuổi thọ

Không có 1 phương pháp chính xác nào đo đạc được tuổi thọ của cá sấu, mặc dù có một vài kỹ thuật đưa ra được những phỏng đoán khá chính xác. Phương pháp chung là đo những vòng tuổi trong xương và răng chúng, mỗi vòng biểu hiện cho 1 sự tăng trưởng mới thường xuất hiện mỗi năm một lần vào mùa mưa, khí hậu ẩm. Loài [cá sấu porosus] trung bình sống khoảng 71 năm, nhưng có những cá nhân vượt qua con số 100. Một trong những con cá sấu sống thọ nhất được ghi lại là con cá sấu sống ở vườn thú Nga, 115 tuổi. Tuy nhiên tài liệu ghi chép không nói rõ nó thuộc giống cá sấu nào. Một con cá sấu nước ngọt giống đực sống ở vườn thú Australia đã 130 tuổi. Nó được Bob và Steve Irwin cứu sống sau khi đã bị bắn 2 lần.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Bộ Cá sấu http://www.britannica.com/EBchecked/topic/143679 http://animaldiversity.ummz.umich.edu/site/account... http://www.itis.gov/servlet/SingleRpt/SingleRpt?se... http://www.ncbi.nlm.nih.gov/Taxonomy/Browser/wwwta... http://vncreatures.net/chitiet.php?page=1&loai=1&I... http://vncreatures.net/chitiet.php?page=1&loai=1&I... http://web.archive.org/web/20131214162037/http://g... http://www.eol.org/pages/1738 http://www.baoangiang.com.vn/Quoc-te/Tu-lieu/Trung... http://m.congly.com.vn/quoc-te/tu-lieu/trung-doan-...